【#1】Nghị Luận Xã Hội Về Câu Nói: Lòng Yêu Nước Ban Đầu Là Yêu Những Vật Tầm Thường Nhất Yêu Cái Cây Trồng Ở Trước Nhà, Yêu Con Phố Nhỏ Đổ Ra Bờ Sông, Yêu Vị Thơm Chua Mát Của Trái Lê Mùa Thu Hay Mùi Cỏ Thảo Nguyên Có Hơi Rượu Mạnh. Lòng Yêu Nhà, Yêu Làng Xóm, Yêu Miền Quê Đã Trở Nên Lòng Yêu Tổ Quốc
Nghị luận xã hội về câu nói: Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc – Bài số 1
“Tình yêu nước ban đầu là tình yêu những vật tầm thường nhất, yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu dãy phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu…”, câu văn ấy từng đọng lại trong tâm hồn một thế hệ học sinh kháng chiến những năm 50, để rồi vì tình yêu ấy mà họ “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”. Vì tình yêu nước, nhiều thế hệ trẻ VN đã hiến dâng đời mình cho Tổ quốc, có vậy mới có ngày 30 tháng 4 lịch sử hôm nay.
Đương nhiên, không một dân tộc nào sống trên quả đất này mà lại không yêu đất nước của mình. Nhưng tùy theo sự hình thành quốc gia, dân tộc trên những vùng lãnh thổ khác nhau, trong những điều kiện không giống nhau, tính thường trực và nhạy cảm của lòng yêu nước cũng sẽ không có những biểu hiện như nhau. Arnold Toynbee, nhà sử học lớn nhất của thế kỷ XX, qua nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới từng đưa ra nhận định: “thành công của con người thường là kết quả sự chống trả đối với thách thức”. Điều kiện hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc ta trong một vị thế địa-chính trị “trứng nằm dưới đá”, triền miên phải đối diện với các thế lực xâm lược luôn lớn hơn mình gấp bội, “sự chống trả đối với thách thức” ấy quả là khốc liệt. Nhưng cũng chính vì thế, lòng yêu nước trở thành một đặc điểm nổi bật trong tính cách VN. Chạm vào điểm nhạy cảm bậc nhất này trong nỗi niềm VN sẽ rung lên những cung bậc hết sức mãnh liệt và đa dạng trong bản giao hưởng tình cảm và hành động VN, đặc biệt là trong thế hệ trẻ, nguồn sinh lực sung sức nhất của dân tộc. Với ngày 30.4.1975, lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc như trỗi dậy, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc trường chinh cứu nước gần một phần ba thế kỷ của mấy thế hệ VN, non sông đã quy về một mối. Rồi hơn một phần ba thế kỷ nữa trôi qua, cao trào của bản giao hưởng nỗi niềm dân tộc, sự sục sôi của tình cảm yêu nước trong mọi trái tim Việt Nam ở mọi cung bậc khác nhau ấy của đủ mọi tầng lớp xã hội vẫn là nét đẹp nhất của đời sống tinh thần VN.
Từ đỉnh cao chiến thắng, mấy ai lường hết được những gì rồi sẽ xảy ra. Điều ấy là thường tình. Những khó khăn dồn dập, thế nước có lúc chung chiêng bên bờ vực của cuộc khủng hoảng kéo dài, nhưng rồi sức sống VN trỗi dậy, tạo ra bước ngoặt quyết định của Đổi Mới, đưa đất nước bứt lên. Và chính trong bối cảnh ấy, là đồng tác giả của Đổi Mới, các tầng lớp nhân dân đã biểu thị lòng yêu nước của mình trong vô vàn những trạng huống cực kỳ phong phú.
Khi có độ lùi về thời gian để tỉnh táo suy tư về dòng chảy của những sự kiện mới thấy hết ý nghĩa lạ lùng của nó. Chẳng hạn như, sức quật khởi cứu nước dạo nào vào lúc cam go trước Đổi Mới lại biểu hiện ra trong sự “phá rào” để “khoán chui” của người nông dân vừa buông tay súng để nắm lại tay cày, tháo gỡ thế bế tắc, đẩy cuộc sống đi tới. Chính sức năng động tự thân của cuộc sống, một dạng biểu hiện thầm lặng của truyền thống yêu nước, đã “cứu một bàn thua trông thấy” trong nông nghiệp nông thôn để rồi tác động đến công nghiệp và đô thị, khởi động sự nghiệp Đổi Mới do Đảng lãnh đạo, mà nếu không có nó, thì không có được những thành tựu như đã có.
Tuổi trẻ hôm nay đang được thử thách trong một nhiệm vụ mà xem ra cũng gian nan không kém so với cha anh. Họ phải đưa đất nước bứt lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu để bước vào quỹ đạo của phát triển mà do một thời “bút nghiên phải xếp lại” đã bị lạc hậu, không những thế, có lĩnh vực đã lạc điệu trong quỹ đạo đó. Người ta ngày càng nhận ra rằng, “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn to đẹp hơn” khó khăn không kém, thậm chí trên nhiều khía cạnh còn nghiệt ngã hơn nhiều, so với đấu tranh giành lại nước từ tay quân thù.
Khi “sơn hà nguy biến” trước giặc ngoại xâm thì phải bằng súng gươm để hóa giải, nhưng khi đất nước đối diện với nghèo nàn và lạc hậu, với tham nhũng và thoái hóa của một bộ phận không nhỏ cán bộ có chức quyền, thì phải bằng bản lĩnh và trí tuệ của tuổi trẻ để giúp nước. Cuộc chiến đấu này không có gươm súng, không dàn thành trận tuyến nhưng “là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ tốt tươi” như Bác Hồ đã chỉ ra. Bác gọi đây là “cuộc chiến đấu khổng lồ” mà muốn giành thắng lợi thì phải “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
Trong “lực lượng vĩ đại” đó, tuổi trẻ phải là lực lượng xung kích. Chính vì không dàn thành trận tuyến nên bản lĩnh cá nhân trên từng chỗ đứng của mình có ý nghĩa quyết định sự thành bại.
Biết đánh thức sức mạnh của tình yêu nước trong bầu nhiệt huyết của thanh niên, điểm nhạy cảm nhất trong tâm thức VN, đánh thức tiềm lực trong những trái tim thế hệ trẻ, mới tạo ra được những biến chuyển mang tính đột phá, đưa đất nước bứt lên trong nhịp phát triển của thời đại.
Nghị luận xã hội về câu nói: Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc – Bài số 2
Bài văn Lòng yêu nước trích từ bài báo Thủ lửa của l-li-a Ê-ren-bua viết năm 1942, giai đoạn đầu cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống phát xít Đức. Nó được coi là bài ca bất diệt về cội nguồn và sức mạnh lòng yêu nước của nhân dân Nga.
Bài vàn thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc của tác giả và những người dân Xô-viết trong hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc. Đồng thời bài văn đã nêu lên một chân lí: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
ở đoạn văn này, tác giả giải thích về ngọn nguồn của lòng yêu nước. Nhận định của nhà văn được rút ra từ thực tiễn: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất. Tiếp đó, tác giả nói đến tình yêu quê hương trong một hoàn cảnh cụ thể. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc khiến cho mỗi công dân Xô-viết nhận ra vẻ đẹp hết sức quen thuộc của quê hương mình. Điều này được minh hoạ bằng một loạt hình ảnh đặc sắc thể hiện nét đẹp riêng của mỗi vùng trên đất nước Xô viết. Từ đó dẫn đến nhận định khái quát: Dòng suối đổ vào
sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Ngọn nguồn của lòng yêu nước đã được chứng minh, mở rộng và nâng cao thành một chân lí ở cuối đoạn văn.
Đềnói về vẻ dẹp riêng biệt của từng vùng trên đất nước Xô viết rộng lớn, tác giả đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu cho vẻ đẹp ở nhiều vùng khác nhau. Từ cực Bắc nước Nga đến vùng núi phía Tây Nam thuộc nước Cộng hoà Gru-di-a, những làng quê êm đềm xứ U-crai-na, từ thủ đô Mát-xcơ-va cổ kính đến thành phố Lê-nin-grát đường bệ và mơ mộng,… Mỗi hình ảnh tuy chỉ là gợi tả qua nỗi nhớ nhưng vẫn làm nổi rõ được vẻ đẹp riêng và tất cả đều thấm đượm tình cảm yêu mến, tự hào của mọi người về quê hương mình.
l-li-a Ê-ren-bua đã diễn tả lòng yêu nước là một khái niệm trừu tượng bằng những hình ảnh cụ thể và dễ hiểu: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phô’ nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Có nghĩa là lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu những sự vật, khung cảnh gần gũi thân quen quanh ta trong cuộc sống hằng ngày. Tình yêu ấy tạo nên sợi dây vô hình mà bền chắc, ràng buộc con người với làng mạc, quê hương, xử sở.
Khi phải sống xa quê hương, tình yêu ấy càng trỗi dậy mãnh liệt trong lòng mỗi người. Giữa những khoảnh khắc im tiếng súng trong một cuộc chiến đấu gay go, ác liệt, mỗi chiến sĩ Xô-viết đều nhớ tới hình ảnh đẹp đẽ, thanh tú của quê hương mình: Người vùng Bắc nghĩ đến cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay miền Xu-cô-nô, thân cây mọc là là mặt nước, nghĩ đến những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng “cô nàng” gọi. đùa người yêu. Hay: Người xứ U-crai-na nhớ bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh… Người ở thành Lê-nin-grát… nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga… Người Mát-xcơ-va nhở như thấy lại những phố cũ chạy ngoằn ngoèo lan man như một hoài niệm, Đềrồi đổ ra những đại lộ của thành phố mới. Xa nữa là điện Krem-li, những tháp cổ ngày xưa, dấu hiệu vinh quang của đất nước Nga… Như vậy là trong lòng những người lính của bất kì miền quê nào, dù là miền núi hayđồng bằng, dù nông thôn hay thành thị… đều ẩn chứa những hình ảnh, kỉ niệm sâu sắc về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Nhà văn Ê-ren-bua đưa ra một khái niệm thật giản dị, cụ thể về lòng yêu nước: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Giản dị và dễ hiểu bởi nó là một chân lí, một quy luật, chẳng khác nào dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu gia đình, yêu quê hương mở rộng, nâng cao lên sẽ trở thành lòng yêu nước.
Lòng yêu nước được bắt nguồn từ tình yêu với những vật bình thường, gần gũi, từ lòng yêu gia đình, quê hương. Nhưng lòng yêu nước chỉ có thể bộc lộ đầy đủ sức mạnh lớn lao của nó trong những hoàn cảnh thử thách gay go, mà lúc này là cuộc chiến tranh Vệ quốc ác liệt một mất một còn với quân thù. Chính trong hoàn cảnh ấy, cuộc sống và số phận của mỗi người gắn liền làm một với vận mệnh của Tổ quốc và lòng yêu nước của nhà văn đã được thể hiện với tất cả sức mãnh liệt của nó.
Không thể chấp nhận một lòng yêu nước mơ hồ, chung chung. Lòng yêu nước phải đi đôi với những suy nghĩ, hành động thiết thực và được bộc lộ rõ ràng nhất trong lửa đạn chiến tranh. Trước sự tồn vong của Tổ quốc, mỗi công dân Nga đều hiểu lòng yêu nước của mình lớn đến dường nào. Họ yêu người thân, yêu Tổ quốc, yêu nước Nga, yêu Liên bang Xô-viết. Ai cũng cảm thấy mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa, bởi nước Nga thiêng liêng đã trỏ thành máu thịt, thành linh hồn của mỗi người.
Trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống phát xít Đức xâm lược, nhân dân Nga càng yêu đất nước bao nhiêu thì càng căm thù bọn cướp nước bấy nhiêu. Họ đã biến lòng căm thù ấy thành hành động cụ thể. Mỗi làng quê, thành phố của nước Nga là một pháo đài, mỗi người dân Nga là một chiến sĩ kiên cường, dũng cảm.
Lòng yêu nước chân chính là cơ sở Đềphân biệt rạch ròi sự khác biệt giữa các chiến sĩ Hồng quân – người anh hùng cầm súng bảo vệ Tổ quốc và tên lính Đức – đứa hung phạm, kẻ sát nhân nhà nghề. Lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Hồng quân đã khiến cho binh lính Đức khiếp sợ và khâm phục.
Gương hi sinh oanh liệt của năm chiến sĩ hải quân trong trận giao chiến ác liệt bảo vệ Xê-bát-xtô-pôn là bằng chứng hùng hồn cho lòng yêu nước: Họ đã ôm lấy nhau, gùi nhau lời chào vĩnh biệt và quấn lựu đạn vào người, lăn ra cản xe tăng địch. Hơn ai hết, họ là những người tha thiết mến yêu cuộc sống nhưng cũng dám xông vào cái chết, hiến dâng sự sống của cá nhân Đềgìn giữ sự sống cho đất nước và dân tộc. Họ đã chiến thắng cái chết và trở thành bất tử bởi tinh thần hi sinh cao cả của họ đã thổi một nguồn sống mới vào lòng triệu con người; nó đã mỗ rộng và luyện chắc linh hồn nước Nga; nó sống mãi giữa trận chiến đấu ác liệt nhất trong năm nay; nó còn sống cả sau ngày thắng lợi giữa muôn hoa rực rỡ tung nở trên khắp các đồng quê và trong những giọng hát trong trẻo nhất của một bầy thiếu nữ đồng ca. Tổ quốc Liên bang Xô viết và nhân dân Nga ngàn đời ghi nhớ công ơn của những người anh hùng cứu nước. Vinh quang bất diệt thuộc về họ.
Nghị luận xã hội về câu nói: Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc – Bài số 3
I-li-a Ê-ren-bua là một nhà văn – nhà báo nổi tiếng của Liên Xô trước đây. Cuộc đời cầm bút của ông đã gắn bó với một giai đoạn thử thách đầy ác liệt và cam go của đất nước Xô Viết: cuộc đụng đầu quyết liệt giữa nhà nước Xô Viết chân chính với bọn phát xít Hít-le trong cuộc chiến tranh vệ quốc vỉ dại (1941- 1945). Lửa thử vàng, chính trong lúc cam go nhất của lịch sử, lòng yêu nước của công dân Xô Viết được thử thách. Là một nhà báo, I-li-a Ê-ren-bua đã ghi lại được những thời khắc lịch sử vô cùng quý báu và thiêng liêng của dân tộc. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông đã ra đời trong thời kì này mà Thử lửa là một sáng tác đặc sắc.
Thử lửa là một bài báo rất độc đáo. Chính chất văn và chất báo trong con người ĩ-li-a Ê-ren-bua đã kết tinh nên thiên tuỳ bút – chính luận này.
Bài văn Lòng yêu nước (Ngữ văn 6, tập II) là một phần của thiên tuỳ bút chính luận Thử lửa. Chỉ mấy chục dòng nhưng bài văn cũng đủ đem đến cho người đọc những cảm xúc, ấn tượng khó quên. Bài văn đã hội tụ được trong nó chất chính luận sắc sảo với chất trữ tình đằm thắm, vì thế, việc khẳng đinh chân lí. Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yèu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc trở nên có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Bài văn được bố cục thành hai phần với hai ý lớn. Ở phần đầu của bài viết, tác giả đề cập tới ngọn nguồn của lòng yêu nước. Để thể hiện nội dụng này, tác giả sử dụng một trình tự lập luận khá chặt chẽ.
Mở đầu đoạn văn, tác giả nêu lên một nhận định được đúc kêt từ thực tiễn: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất, cụ thể là yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phô nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lè mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh.
Tiếp đó, tác giả mở rộng chứng minh nhận định, đề cập đến tình yêu quê hương trong một hoàn cảnh cụ thể: Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương.
Cuối cùng, tác giả khái quát thành một chân lí. Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn- ga, con sông Vôn- ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yếu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc.
Tuy nhiên, sức thuyết phục của bài văn chủ yếu không phải bằng lí lẽ, mà bằng tình cảm thiết tha, sâu đậm và sự hiểu biết sâu sắc về Tổ quốc Liên bang Xô viết của nhà văn. Chính tình cảm và sự hiểu biết ấy đã khiến tác giả cảm nhận được những “nét thanh tú”, những vẻ đẹp riêng biệt độc đáo của mỗi miền đất nước.
Ngòi bút của tinh tế I li a Ê-rẽ -ri-bua đưa người đọc đến những vùng miền khác nhau của đất nước Liên Xô rộng lớn, chiêm ngưỡng những vẻ đẹp thiên nhiên, thưởng thức những đặc sản, cảm nhận những tình cảm bình dị, ngọt ngào. Đây miền Bắc của Liên Xô với những cánh rừng bên dòng sông, có nhừng thản cây mọc là là mặt nước, những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng cô nàng gọi đùa người yêu. Đây xứ U-crai-na êm đềm với bóng thuỳ dương tư lự bèn đường, trưa hè vàng ánh. Đây sứ Gru-di-a với những triền núi cao có khí trời trong lành, những tảng đá sáng rực, dòng suối óng ảnh bạc, có vị mát của nước đóng băng, rượu vang cay, những lời thân ái giản dị Thật thú vị biết bao! Và đây, thành Lê-nin-grát đường bệ và mơ mộng, với những tượng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, lá hoa rực rỡ của công viên mùa hè, những phố phường mà mỗi căn phòng là một trang lịch sử. Và đây nữa thành Mát-Xcơ-va cổ kính với những phố cũ ngoằn ngoèo lan man như một hoài niệm, với diện Krem-li, nhừng tháp cổ có ánh sao đỏ.
Ngòi bút miêu tả cùa I-li-a Ê-ren-bua mang đậm sác thái trữ tình, thể hiện tình cảm yêu mến và tự hào sâu sắc của ông về quê hương đất nước của mình.
Có thể nói, chưa bao giờ khái niệm về lòng yêu nước lại được diễn tả chính xác và gợi cảm đến thế.
Ngay chân lí về lòng yêu nước cũng được thể hiện bằng một hình ảnh so sánh rất ấn tượng. Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Sau khi nêu ra ngọn nguồn của lòng yêu nước, I-li-a Ê – ren- bua chuyển sang khắng định: Lòng yêu nước chỉ có thể được bộc lộ đầy đủ nhất, cao đẹp nhất khi được thử thách trong lửa đạn chiến tranh: Có thể nào quan niệm được sức mãnh liệt của tình yèu /mà không đem nó vào lửa đạn gay go thử thách. Chính trong cuộc chiến tranh vệ quốc một mất một còn này, mỗi người dân Xô Viết hiểu cuộc sống và số phận của họ và gắn liền với vận mệnh Tổ quốc. Và vì thế, họ sẵn sàng rời xa quê hương tươi đẹp, thơ mộng xiết bao trìu mến để lên đường chiến đấu vì Tổ quốc.
Bài văn kết thúc bằng một câu nói đã trở thành phương châm sống của công dân Xô Viết lúc bấy giờ: Mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa.
Phương châm ấy đã trở thành lí tưởng sống của mọi dân tộc.
Nghị luận xã hội về câu nói: Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc – Bài số 4
1. – Lòng yêu nước, trước hết, là một.loại tình cảm của con người nhưng là tình cảm đặc biệt nhất, quan trọng nhất tạo nên sự liên kết bền vững giữa các thành viên trong một cộng đồng, một dân tộc, một đất nước. Để có được lòng yêu nước cần phải có sự nhận thức cao, nhận thức đúng đắn. Con người bao giờ cũng sống thành cộng đồng, có gắn bó chặt chẽ với nhau, có quan hệ nhiều chiều, hoặc là quan hệ gia đình, quan hệ bè bạn và cao hơn là quan hệ xã hội. Con người được đặt và được sử dụng cùng nhau trong một không gian chung, tất cả mọi thứ, hiện thân qua đồng ruộng, vườn tược, cây cối, núi non, sông. biển,…
– Trong mỗi cuộc đời, không ai không phải quan hệ với những người khác, hay không cần tới một sự vật hay một không gian sống nào. Sự hiện diện của “những vật tầm thường nhất”, trở nên quen thuộc tới mức chúng trở thành “tầm thường” nhưng không thể thiếu chúng được, bởi chúng đã trở thành những kỉ niệm tạo nên những cột mốc trong một đời người, chẳng hạn, một cái cây ăn quả bô” trồng trước khi ra đi, một cây cầu nơi ta hò hẹn hoặc chia li,… đã tạo thành sự gắn bó hữu cơ giữa con người với chính những vật đó. Lòng yêu Tổ quốc bắt nguồn từ “lòng yêu những vật tầm thường nhất” là vì vậy, bồi nếu thiếu chúng, chúng ta khó tồn tại và phát triển.
– Cũng tương tự như vậy, ngôi nhà nơi ta cất tiếng khóc chào đời, nơi gia đình sum họp; làng xóm, nơi trở thành quê hương mà mỗi lúc đi xa là mang theo bao nỗi nhớ, cái làng nhỏ bé tại một miền quê nào đó trở thành kỉ niệm sâu sắc đối với mỗi chúng ta. Vì thế: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”, yêu chính những kỉ niệm của cuộc đời ta.
– Trọng cuộc đời nếu không có chút kỉ niệm nào, không có sự gắn bó nào thì cuộc đời đó trở nên vô vị nhạt nhẽo, trở thành cuộc sống bản năng chứ không phải cuộc sống của một con người đích thực. Sống bằng kỉ niệm, sống bằng yêu thương và bằng mọi cách thể hiện tình cảm yêu thương đó với những vật xung quanh, với ngôi nhà, với làng xóm, đó chính là lòng yêu nước.
2. – Khi nói “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất” thì thực chất tác giả muốn đề cập đến tình cảm của con người đối với những đặc trưng riêng biệt của những nơi mà con người sống. Mỗi vùng quê, mỗi miền đất đều có nét riêng của nó, đều có những cái mà nơi khác không có được. Vì thế, yêu quê hương, đất nước, yêu Tổ quốc chính là yêu cái vẻ đẹp rất riêng tư này, cái vẻ đẹp đã gắn bó, đã trở thành máu thịt của mỗi con người.
– Vẻ đẹp của mỗi miền quê trên đất nước Liên Xô rộng lớn được tác giả gợi ra như một kĩ niệm không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ, trồ thành đặc trưng của từng vùng. Tác giả không tả kĩ, mà chỉ gợi ra nhưng cũng đủ để tạo nên sức nặng thuyết phục tình cảm, khiến cho “mỗi công dân Xô viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương”, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh, vẻ dẹp của các miền quê được tái tạo theo hình thức liệt kê, từ cấp độ các quốc gia thành viên trong nhà nước Liên Xô cũ như “người xứ U-crai-na”, “người xứ Gru-di-a”; được mở rộng theo địa danh các thành phố lớn, như “người ở thành Lê-nin-grát”, “người Mát-xcơ-va”; được kể theo phương vị như “người vùng Bắc”;…
– Mỗi địa danh như vậy, mỗi vùng miền như vậy lại được tôn tạo bằng đặc trưng riêng của từng nơi, những đặc trưng tạo nên sự khác biệt giữa vùng này hay vùng khác nhưng đều có chung đặc điểm là tính chất quê hương, đều là những nét đẹp riêng tư tạo nên cốt cách của con người tại từng miền quê ấy. Như vậy, trong lòng mỗi người ai cũng có cái riêng để mà yêu, để mà quý của mình. Nhưng nếu. các vẻ đẹp ấy dùng riêng, tách bạch, thì sẽ không trụ vững trước thử thách ác liệt của chiến tranh. Vì thế, tính chất quy luật hiện ra như một chân lí của thời đại, chân lí gắn với sự sống còn của một đất nước: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể”. Các vẻ đẹp của từng vùng miền tạo nên vẻ đẹp của Liên Xô vĩ đại, tạo thành sức mạnh dân tộc, sức mạnh vô song không những chỉ đánh bại mà còn tiêu diệt được cả kẻ thù, cho dù đó là kẻ thù tàn bạo, hung hãn, hiếu thắng nhất của thế kỉ XX. Sức mạnh liên kết các vẻ đẹp ấy chính là hiện thân của tình đoàn kết dân tộc.
– Cách chọn lọc và miêu tả của tác giả, trên cơ sở lựa chọn những nét đặc sắc nhất, tiêu biểu nhất, đã tạo ra sức mạnh thuyết phục, khơi dậy lòng yêu nước, trả lời cho câu hỏi lòng yêu nước là gì và phải làm những gì để thể hiện lòng yêu nước đo. Cách lập luận chặt chẽ được lồng vào trong niềm kiêu hãnh, tự hào về vẻ đẹp của quê hương, đất nước đã tạo nên sức mạnh thuyết phục cho văn bản này.
3. Trình tự lập luận của đoạn văn được thể hiện trong các ý sau:
– Xác lập cội nguồn của lòng yêu nước: Lòng yêu nước khỏi nguồn từ “lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh”. “Những vật tầm thường” này sẽ trồ thành hết sức bình dị, ít ai để ý trong cuộc sống đời thường, trong cuộc sống bình lặng không có biến cố, biến động lớn lao nào tác động lên mọi cuộc đời nói chung. Nhưng “những vật tầm thường” ấy lại mang một giá trị khác khi chiến tranh xảy ra, khi cuộc sống bị đảo lộn.
– Biểu hiện của “những vật tầm thường” mang vẻ đẹp “thanh tú của chốn quê hương”: Những vật tầm thường ấy trở thành kỉ niệm gắn với cuộc đời mỗi người, trở thành hành trang trong ba lô của những người lính khi ra trận. Những vật tầm thường đó trở thành kỉ vật thiêng liêng trong, tâm khảm mỗi con người khi chiến tranh xảy ra. Tác giả đưa ra các dẫn chứng về vẻ đẹp “thanh tú” của những miền quê khác nhau, theo các phương vị khác nhau: từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ nông thôn đến thành thị, từ làng quê xa xôi tới Lê-nin-grát, từ những ngọn núi đến những dòng sông, những dấu hiệu đặc trưng của mỗi miền quê hay thành phố…
– Dẫn dắt để tạo ra sự kết nối các biểu hiện của “những vật tầm thường”: vẻ đẹp “thanh tú” của mỗi miền quê giống như con suối riêng lẻ, khi được kết hợp lại sẽ trở thành “dải trường giang Vôn-ga” để rồi từ đó, “con sông Vôn-ga” lại đi ra hoà vào biển lớn, tạo thành đại dương mang sức mạnh vô cùng to lớn. Sự so sánh tương đồng này dẫn tới lập luận tạo ra chân lí thuyết phục: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
Xác lập trách nhiệm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc: Nhưng tình yêu Tổ quốc chỉ trở nên có giá trị thực tiễn khi biết bảo vệ những vẻ đẹp “thanh tú” nảy
sinh từ “những vật tầm thường” ấy. Khi Tổ quốc bị đặt vào hoàn cảnh gay go, phải đối mặt với sự sông còn thì mỗi miền quê, mỗi vẻ đẹp riêng đều trở thành một bộ phận thiêng liêng của Tổ quốc và không được để mất chúng. Điều đó đồng nghĩa với câu cuối cùng của đoạn văn: “Mất nước Nga thì ta còn sống làm gì nữa”, nghĩa là Tổ quốc là trên hết, mất Tổ quốc thì mất luôn cả cuộc sống cũng như ý nghĩa vốn có của cuộc sống mỗi người.