--- Bài mới hơn ---
Đường Lối Của Đảng Về Xây Dựng Hệ Thống Chính Trị Ở Nước Ta?
Câu 407.khái Niệm “hệ Thống Chính Trị” Lần Đầu Tiên Được Đảng Ta Sử Dụng Khi Nào?
Đặc Điểm Của Hệ Thống Chính Trị Việt Nam Hiện Nay. Nêu Một Số Hạn Chế Và Giải Pháp Khắc
Bộ Câu Hỏi Tham Khảo Thi Trắc Nghiệm Kỳ Thi Nâng Ngạch Chuyên Viên Chính Năm 2022, Chuyên Đề Xây Dựng Đảng, Chính Quyền, Nhà Nước
Hệ Thống Chính Trị Xã Hội Chủ Nghĩa
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
LÝ LUẬN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Người soạn: Phạm Dũng
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ DỤC THỂ THAO
GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1. Mục đích và nhiệm vụ của Giáo dục thể chất :
Mục đích : Góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản ký kinh tế và văn hóa xã hội có thể chất cường tráng- phát triển hài hòa- đáp ứng được yêu cầu của chuyên môn nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận với thực tiễn lao động, sản xuất… của nền kinh tế thị trường.
Nhiệm vụ:
-Giáo dục đạo đức, rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật; xây dựng niềm tin, lối sống lành mạnh, tinh thần tự giác học tập và rèn luyện thân thể ; chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ tổ quốc.
-Cung cấp các kiến thức lý luận cơ bản về nội dung – phương pháp luyện tập Thể dục thể thao, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản của một số môn thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương tiện đó để tự rèn luyện thân thể, cải thiện đời sống tinh thần của bản thân; đồng thời tham gia các phong trào thể dục thể thao của nhà trường và xã hội.
-Góp phần duy trì- củng cố sức khỏe và phát triển cơ thể của sinh viên một cách hài hòa; xây dựng những thói quen lành mạnh và khắc phục các thói quen xấu; tránh xa các tệ nạn xã hội.
Trong các trường Đại học và cao đẳng, hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm chung trong chỉ đạo, kiểm tra công tác giáo dục thể chất – phong trào thể thao và theo dõi sức khỏe của sinh viên. Bộ môn Giáo dục thể chất có trách nhiệm về việc tổ chức và tiến hành quá trình sư phạm và giáo dục thể chất cho sinh viên theo kế hoạch giảng dạy của trường. Các hoạt động Thể dục thể thao quần chúng và nâng cao thành tích thể thao do chi hội thể thao đại học và chuyên nghiệp( Ban văn thể ) Trường cùng với Bộ môn Giáo dục thể chất phối hợp với các tổ chức quần chúng khác như Công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trường thực hiện. Công tác kiểm tra sức khỏe định kỳ và theo dõi tình trạng sức khỏe của sinh viên trong quá trình luyện tập và thi đấu Thể dục thể thao do Y tế trường phối hợp với Bộ môn Giáo dục thể chất tiến hành.
2. Các hình thức Giáo dục thể chất :
Giáo dục thể chất trong các trường đại học phải được tiến hành bằng các hình thức sau:
-Giờ học thể dục thể thao:
+ Giờ chính khóa: (150 tiết chia thành 5 học phần) trang bị các kiến thức về lý luận giáo dục thể chất; nguyên lý kỹ thuật một số môn thể thao theo điều kiện cơ sở vật chất và con người của trường; các phương pháp tập luyện để duy trì và nâng cao thể lực cho sinh viên.
+ Giờ ngoại khóa: ( 320 tiết chia ra 4 năm học, năm thứ nhất và thứ 2 mỗi năm 60 tiết, năm thứ 3 và năm thứ tư mỗi năm 100 tiết) nhằm củng cố và hoàn thiện các bài học trong giờ chính khóa.
+ Các bài tập thể dục vệ sinh và chống mệt mỏi hàng ngày.
+ Các hoạt động thể thao quần chúng: Giải thể thao của khoa, trường và các đội tuyển trường tham gia thi đấu ở các giải do các cấp ban ngành tổ chức.
3. Trách nhiệm của sinh viên :
-Tham gia đầy đủ các buổi học thể dục thể thao( cả lý luận và thực hành) theo thời khóa biểu và kế hoạch giảng dạy của nhà trường.
-Kiểm tra thể lực và sức khỏe định kỳ ( thực hiện các thử nghiệm cần thiết để xác định trình độ thể lực và tình trạng các cơ quan chức năng của cơ thể)
-Tích cực học tập và tìm hiểu các tài liệu về thể dục thể thao tạo điều kiện tiếp thu kiến thức về lý luận và phương pháp giáo dục thể chất.
-Có chế độ sinh hoạt, học tập và nghỉ ngơi hợp lý.
-Thường xuyên tập thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ và tự luyện tập để phát triển thể lực theo sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn Giáo dục thể chất.
-Củng cố sức khỏe, nâng cao trình độ thể lực trên cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và hoàn thiện kỹ thuật các môn thể thao.
-Tích cực tham gia các phong trào thể thao quần chúng từ lớp, khoa, khóa, trường và ngoài trường.
CƠ SỞ KHOA HỌC SINH HỌC CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Giáo dục thể chất được xây dựng dựa trên những thành tựu của các khoa học Y sinh học về cơ thể con người như: Sinh lý, Sinh hóa, Sinh cơ, Giải phẫu, Vệ sinh, Y học…. Không có những kiến thức về cấu tạo của cơ thể, vè quy luật hoạt đọng của từng cơ quan của các hệ cơ quan chức năng của cơ thể cũng như đặc điểm của các quá trình sống phức tạp thỉ không thể tổ chức và tiến hành công tác giáo dục thể chất đạt hiệu quả.
1.Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất. Trao đổi chất và năng lượng:
– Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất:
Y sinh học hiện đại khi nghiên cứu cơ thể sống thường tách nó ra thành các cơ quan, hệ cơ quan và các chức năng riêng biệt. Tuy nhiên, cơ thể con người luôn là một hệ sinh học hoàn chỉnh và thông nhất, có khả năng tự điều chỉnh và tự phát triển. Sự thông nhất đó thể hiện ở cả hai mặt: Giữa các cơ quan, hệ cơ quan hoặc các chức năng của cơ thể luôn có sự tác động qua lại với nhau; sự biến đổi của một cơ quan nhất thiết sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan khác và nói chung đến toàn bộ cơ thể. Hoạt động của cơ thể bao gồm sự phối hợp của hoạt động tâm lý, hoạt động dinh dưỡng và vận động trong mối liên hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh và chịu sự tác động của môi trường. Sự thay đổi của môi trường bao gồm cả sự thay đổi của môi trường tự nhiên và xã hội sẽ dẫn đến những thay đổi trạng thái của cơ thể.
– Trao đổi chất và năng lượng:
Sự thống nhất của cơ thể với môi trường bên ngoài thể hiện ở sự trao đổi chất và năng lượng. Không một tế bào nào của cơ thể có thể tồn tại nếu không liên tục nhận được các chất dinh dưỡng, ô xy và đào thải các sản phẩm phân giải. Sự trao đổi chất và năng lượng liên tục của cơ thể được phân chia ra làm hai quá trình. Quá trình Đồng hóa là quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng và ô xy để tích lũy tiềm năng vật chất của cơ thể; Quá trình di hóa là quá trình liên tục phân giải các chất hóa học phức tạp đã hấp thụ được đào tạo thành năng lượng cho cơ thể sống và hoạt động.
Quá trình trao đổi chất của cơ thể được chia làm Ba giai đoạn:
– Giai đoạn 1: Đưa các chất dinh dưỡng và ôxy vào cơ thể
– Giai đoạn 2: Các cơ quan- tổ chức hấp thụ các chất dinh dưỡng và ô xy để tích lũy và giải phóng năng lượng
– Giai đoạn 3: Đào thải các sản phẩm phân giải
Ô xy được đưa vào cơ thể bằng hệ hô hấp và hệ tim mạch; còn các chất dinh dưỡng( đường- đạm- mỡ- muối khoáng- vitamin) vào cơ thể cùng thức ăn.
Quá trình trao đổi chất xảy ra mạnh và liên tục trong suốt cuộc đời con người; Các tế bào luôn phân hủy và được sản sinh; trong 3 tháng cơ thể đã thay đổi gần ½ lường Prôtêin; ví dụ : sau 5 năm học, niêm mạc dạ dày của sinh viên đã thay đổi tới 500 lần. Sự trao đổi chất của cơ thể luôn xảy ra song song với sự trao đổi năng lượng; sự cân bằng giữa năng lượng hấp thụ và năng lượng tiêu hao là chỉ số quan trọng để đánh giá sự trao đổi năng lượng. Cân bằng dưỡng khi hấp thụ lớn hơn tiêu hao, lúc này cơ thể éo lên, ưa vận động, nếu để cân bằng dương kéo dài sẽ bị bệnh béo phì, sức khỏe giảm sút; cân bằng amaam sẽ làm sút cân, người mệt mỏi, giảm khả năng vận động; nếu để kéo dài sẽ dẫn đến bệnh suy dinh dưỡng.
Quá trình tạo năng lượng cho cơ thể hoạt động được diễn ra theo 2 cách:
-Đốt chấy đường & mỡ: Khi cơ thể được cung cấp đủ Ôxy thì quá trình tạo ra nguồn năng lượng lớn ; máu đảm nhiệm việc vận chuyển chất dinh dưỡng và các sản phẩm phân giải; cơ chế đốt cháy là nguồn năng lường chiếm ưu thế lúc yên tĩnh khi vận động nhẹ, thời gian dài.
-Phân hủy các chất giàu năng lượng (khi cơ thể hoạt động trong điều kiện nguồn cung cấp Ôxy không đáp ứng đủ): Cơ chế này tạo ra năng lượng nhanh, không cần phải có Ôxy song lại tạo ra Axit lactic là chất tích tụ trong cơ làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ( gây chuột rút).
Đường (Gluxit) là chất cung cấp năng lượng chính của cơ thể ( 1g đường cung cấp 4,1Kcal). Đường được sử dụng mạnh ở não và cơ. Cơ thể luôn được bão hòa đường dưới dạng Glucoza chứa trong tất cả các mô của cơ thể; nguồn cung cấp đường chủ yếu là các thức ăn có nguồn gốc thực vật. Trong máu , hàm lượng đường glucoger luôn ổn định ở khoảng 80 – 120 mg %. Ngoài ra cơ thể còn dự trữ đường dưới dạng Glucogen ở gan và cơ. Hàm lượng Glucogen dự trữ này khoảng300g. Ở những vận động viên trình độ cao lượng Glucogen này lên tới 500g. Trong các hoạt động thể lực và trí óc căng thẳng, lượng Glucoza tăng lên theo phản xạ giúp cho cơ thể hoạt động tốt hơn và thích nghi nhanh hơn với hoạt động. Khi hoạt động căng thẳng- kéo dài thì hàm lượng đường trong máu giảm xuống. Với người bình thường nếu lượng đường giảm xuống tới 70 mg % thì hoạt động của não sẽ bị rối loạn và nếu xuống tới 60 mg % thì não không hoạt động được nữa; nhưng với các VĐV có trình độ cao thì vẫn tiếp tục thi đấu được thậm chí cả khi hàm lượng đường trong máu xuống tới 40 mg %. Điều đó cho thấy rằng tập luyện thường xuyên, đúng phương pháp đã nâng cao khả năng chịu đựng của cơ thể.
Mỡ ( lipit ) là chất dinh dưỡng cung cấp năng lượng rất cao ( 1g mỡ khi phân giải cung cấp 9,3 Kcal); mỡ có nhiều trong cả thức ăn động vật và thực vật. Trong cơ thể , mỡ còn có chức năng bảo vệ cơ thể khỏi bị mất nhiệt, bảo vệ các cơ quan nội tạng khi có va chạm cơ học. Mỡ còn tham gia cấu tạo màng tế bào. Khi cung cấp năng lượng mỡ được sử dụng dưới dạng các Axit béo, và chủ yếu cho cơ trơn; con cơ vân chỉ sử dụng mở để tạo năng lượng trong các hoạt động nặng – kéo dài và khi lượng dự trữ đường đã cạn; 80 % năng lượng của cơ thể được cung cấp bằng cách phân giải mỡ. Vì vậy việc tập luyện TDTT có tác dụng kích thích việc sử dụng mỡ, chống được bện béo phì.
Đạm ( Prôtêin) là chất cấu tạo cơ bản của cơ thể. Song nếu bị đói kéo dài, đường và mỡ dự trữ đã cạn thì đạm cũng có thể sử dụng để cung cấp năng lượng ( 1g đạm khi phân giải cung cho 4,1 Kcal); Đạm không được dự trữ trong cơ thể, vì vậy khi bị đói- đạm của cơ quan này sẽ được sử dụng để duy trì sự sống của cơ quan khác quan trọng hơn.
Muối khoáng, vi tamin, nước: là những chất không sinh năng lượng. Nước và muối khoáng chủ yếu để duy trì áp suất thể dịch của cơ thể và ổn định môi trường bên trong cơ thể. Vitamin có tác dụng xúc tác các quá trình chuyển hóa các chất và nâng cao khả năng hoạt động của cơ thể, đặc biệt là các hoạt động thể lực.
2. Cơ thể con người là bộ máy vận động :
Vận động ;à điều kiện để cơ thể tồn tại và phát triển. Cơ thể con người được cấu tạo và hoạt động giống như một bộ máy vận động. Bộ máy vận động của cơ thể gồm có xương- cơ- dây chằng( là những bộ phận trực tiếp đảm nhiệm chức năng vận động); các hệ cơ quan (hô hấp- tuần hoàn& máu) đảm bảo cung cấp Ôxy và vận chuyển các chất dinh dưỡng cho cơ tồn tại, phát triển và cung cấp năng lượng cho cơ quan vận động hoạt động. Tất cả các hoạt động đều chịu sự điều khiển của hệ thần kinh TW.
2.1 Bộ máy vận động : (Gồm xương, cơ, dây chằng& thần kinh điều khiển hoạt động của cơ) trong đó xương, cơ, dây chằng là bộ phận trực tiếp thực hiện các động tác.
– Bộ xương : (Gồm hơn 200 chiếc) Là giá đỡ thân thể và bảo vệ các cơ quan nội tạng. Các xương liên kết với nhau tạo nên các khớp xương; trong khớp có sụn và dịch nhầy; xung quanh khớp có dây chằng giữ cho khớp ổn định – vững chắc. Mỗi khớp chỉ có khả năng hoạt động theo một hướng và mức độ nhất định nhưng nếu được tập luyện thì mức độ linh hoạt của khớp sẽ tăng lên đáng kể song cấu trúc giải phẫu mới là yếu tố quyết định đến việc lựa chọn động tác trong tập luyện.
– Cơ bắp : (có 3 loại là cơ trơn, cơ vân, cơ tim). Cơ trơn cấu tạo ở mạch máu, các cơ quan nội tạng và ở da; cơ tim cấu tạo ở tim hai loại cơ này hoạt động không theo ý muốn, chúng hoạt động rất bên bỉ. Cơ vân có đặc điểm là co nhanh nhưng chóng mệt mỏi và hoạt động theo ý muốn.
– Thần kinh cơ : Để cơ có thể hoạt động thì phải có các xung thần kinh đi đến cơ theo các sợi thần kinh. Các sợi TK đi đến cơ là các sợi nhành của tế bào thần kinh vận động; thân của té bào nằm ở tủy sống hoặc não; một tế bào TK có thể có rất nhiều nhánh đi đến nhiều sợi cơ. Tế bào TK và những sợi cơ mà nó điều khiển tạo thành một đơn vị vận động. Đơn vị vận động có thể rất nhỏ, chỉ chứa vài sợi cơ, nhưng cúng có thể rất lớn, chứa đến 2000 sợi cơ.
Sơ đồ cấu tạo đơn vị vận động
2.2 Máu và tuần hoàn máu :
a . Máu : là chất lỏng màu đỏ, lưu thông trong hệ thống tuần hoàn khép kín. Máu là một mô liên kết đặc biệt gồm chất lỏng đặc biệt( huyết tương) và các tể bào máu( huyết cầu). Có ba loại huyết cầu: Hồng cầu- bạch cầu và tiểu cầu.
– Hồng cầu: Là những tế bào không nhân hình đĩa lõm ở giữa, cấu tạo từ một chất đạm đặc biệt gọi là huyết cầu tố(hemoglobin). Huyết cầu tố có khả năng kết hợp với Ôxy thành một hợp chất và nhờ đó Ôxy được vận chuyển tới các tổ chức cơ quan và khí cacbonic lại được chuyển từ các tổ chức cơ quan ra phổi,
– Bạch cầu: Chủ yếu thực hiện chức năng bảo vệ; chúng tiêu diệt các chất lạ xâm nhập vào cơ thể .
– Tiểu cầu: nhỏ hơn hồng cầu và có vai trò qua trọng trong việc làm đông máu.
Các tế bào máu năm trong huyết tương, trong huyết tương còn có các chất dinh dưỡng, muối khoáng, các sản phẩm phân giải của quá trình trao đổi chất, các nội tiết tố, các loại vi khuẩn và các kháng thể đối với các chất độc hại…
– Máu được tuần hoàn trong hệ mạch máu để đảm nhiệm các chức năng rất quan trọng:
+ Chức năng dinh dưỡng: cung cấp các chất dinh dưỡng đến các mô cho hoạt động sống của các tế bào
+ Chức năng điều khiển: các nội tiết tố và các chất khác có trong máu có tác dụng điều hòa hoạt động của các cơ quan – tổ chức.
+ Chức năng bảo vệ: Nhở quả trình thực bào và quá trình miễn dịch của bạch cầu.
+ Chức năng điều nhiệt: Màu làm nhiệm vụ vận chuyển nhiệt, làm cho cơ thể không bị quá nóng và sưởi ấm cho các bộ phận bị lạnh.
b. Hệ tuần hoàn : (Gồm có Tim và hệ thống các mạch máu) Màu được di chuyển trong hệ tuần hoàn nhờ lực bóp của tim và sự nhu động của thành mạch máu; máu được đảy từ tim vào các động mạch, sau đó chia nhánh nhiều lần, cuối cùng ở các cơ quan và tổ chức là mao mạch (các mạch máu rất nhỏ có cấu tạo các màng bán thấm).
Tim là bộ phận quan trọng nhất của hệ tuần hoàn; cấu tạo như một cái bơm để đảy máu đi và hút máu về; nhờ tim mà máu tuần hoàn trong cơ thể. Tim hoạt động tự động song cũng chịu sự tác động gián tiếp của các cơ quan tổ chức khác đặc biệt là hệ thần kinh. Tim được chia làm 4 ngăn, hai buồng phía dưới là tâm thất phải và trái, hai buồng phía trên là tâm nhĩ phải và trái.
Sự tuần hoàn diễn ra theo hai vòng:
Vòng lớn bắt đầu từ Tâm thất trái theo động mạch mang các chất dinh dưỡng và Ôxy tới các tổ chức cơ quan sau đó theo tĩnh mạch trở về tâm nhĩ phải.
Vòng tuần hoàn nhỏ từ Tâm nhĩ phải đổ xuống tâm thất phải rồi từ đó theo theo động mạch đem khí cácbonic lên phổi đổi lấy Ôxy và trơ về tâm nhĩ trái; từ tâm nhĩ trái màu lại đổ xuống tâm thất trái để chuẩn bị một vóng tuần hoàn mới.
Sơ đồ vòng tuần hoàn
1. Động mạch chủ 2. Động mạch gan 3. Động mạch ruột 4. Lưới mao mạch 5. Tĩnh mạch cửa 6. Tĩnh mạch gan 7. Tĩnh mạch chủ dưới 8. Tĩnh mạch chủ trên 9. Tâm nhĩ phải 10. Tâm thất phải 11. Động mạch phổi 12. Lưới mao mạch 13. Tĩnh mạch phổi 14. Tâm nhĩ trái 15. Tâm thất phải
CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT
CÁC NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT
KIỂM TRA VÀ TỰ KIỂM TRA Y HỌC TRONG QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT.
Tập luyện các bài tập giáo dục thể chất và thể thao có những tác dụng to lớn và phức tạp đối với cơ thể, góp phần tích cực tăng cường sức khoẻ, phát triển thể lực và nâng cao khả năng làm việc, trong điều kiện quá trình tập luyện được tổ chức và tiến hành thích hợp, dựa trên các nguyên tắc giáo dục thể chất và phù hợp với đặc điểm y – sinh học của người tập. Kiểm tra và tự kiểm tra y học đối với người tập trong quá trình giáo dục thể chất là những biện pháp rất cần thiết để đảm bảo hiệu quả giáo dục nâng cao sức khoẻ, ngăn ngừa các tác động xấu có thể xẩy ra.
Kiểm tra y học là một bộ phận của y học và là thành phần hữu cơ của hệ thống giáo dục thể chất. Kiểm tra y học trong quá trình giáo dục thể chất nghiên cứu trạng thái sức khoẻ, mức độ tập luyện của người tập dưới tác động của quá trình tập luyện. Nó cho phép giáo viên cũng như bản than người tập có thể phát hiện kịp thời những biến đổi trong cơ thể và trên cơ sở đó, tiến hành lập kế hoạch tập luyện chính xác và tăng cường sức khỏe.
Nhiệm vụ chính của công tác kiểm tra y học là đảm bảo tính đúng đắn và hiệu quả của tất cả các hình thức và phương tiện giáo dục thể chất để phát triển hài hoà, củng cố và tăng cường sức khỏe người tập, góp phần xác định lượng vận động đối với học sinh. Để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, công tác kiểm tra y học phải được tiến hành thường xuyên trong quá trình giảng dạy và huấn luyện.
Trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp kiểm tra y học có thể được tiến hành bằng những hình thức sau:
– Kiểm tra y học thường kỳ đối với tất cả những người tham gia tập luyện thể dục thể thao.
– Theo dõi y học – sư phạm đối với người tập trong quá trình giáo dục thể chất.
– Kiểm tra vệ sinh sân bãi, dụng cụ và các điều kiện tập luyện khác.
– Đề phòng và điều trị bước đầu các chấn thương và trạng thái bệnh lý
– Đảm bảo y tế cho các hình thức thể thao quần chúng và các cuộc thi đấu thể thao.
– Tuyên truyền và phổ biến các kiến thức y học TDTT trong nhà trường.
1. TỔ CHỨC VÀ NỘI DUNG CỦA KIỂM TRA Y HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG
Tất cả các học sinh, sinh viên tham gia tập luyện TDTT theo chương trình giáo dục thể chất chinh khoá, ngoại khoá hoặc tự tập đều phải tra y học bước đầu trước khi tập luyện (vào đầu năm thứ nhất) để phân loại sức khoẻ và kiểm tra định kỳ ít nhất 1 lần mỗi năm đới với nhóm cơ bản và 2- 4 lần đối với nhóm yếu và nhóm nâng cao. Kiểm tra định kỳ là để xác định những biến đổi trong cơ thể người tập nhằm đánh giá hiệu quả của quá trình giáo dục, huấn luyện và đề ra những thay đổi cần thiết trong chương trình tập luyện tiếp theo.
Trước các cuộc thi đấu hoặc sau khi người tập bị đau ốm, chấn thương, giáo viên có thể cho tiến hành kiểm tra y học bổ sung để xác định lại trạng thái sức khoẻ và trình độ thể lực ở thời điểm hiện tại, cho phép hoặc không cho phép tham gia thi đấu và luyện tập.
Nội dung kiểm tra y học chung thường bao gồm:
1)Hỏi về tiểu sử bản than, gia đình và quá trình tập luyện để nắm vững các thông tin về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, đặc điểm phát triển thể lực, điều kiện sống và làm việc, thời gian và tính chất tập luyện TDTT v.v…
2)Kiểm tra sự phát triển thể lực
3)Kiểm tra chức năng của các cơ quan.
4)Thử nghiệm chức năng với lượng vận động định lượng
Các nội dung kiểm tra y học nêu trên do giáo viên, huấn luyện viên kết hợp với các bác sĩ tiến hành. Khi cần thiết, có thể có cả các bác sĩ chuyên khoa và các chuyên gia chẩn đoán chức năng y học thể thao cùng tham gia.
2. KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC
Sự phát triển thể lực là một trong những yếu tố quan trọng của tình trạng sức khỏe và trạng thái chức năng của cơ thể. Sự phát triển thể lực thường được đánh giá thông qua mức độ phát triển của các tổ chức xương, cơ, hình dáng, kích thước của các bộ phận cơ thể và các chức năng cơ bản bằng các phương pháp quan sát, đo đạc, thử nghiệm chức năng v.v…
Phương pháp quan sát dung để đánh giá trạng thái da, bộ xương, mức độ phát triển của cơ và lớp mỡ mô dưới da. Khi quan sát cần phải xác định hình dáng lồng ngực, lưng, bụng và tứ chi. Tất cả các yếu tố nêu trên tạo nên thể hình của người tập.
Hình dáng lồng ngực có thể có thể có các hình dạng ống, hình phễu và phẳng dẹt. Hình dáng lồng ngực xác định theo vị trí bên dưới của sương sườn, tỉ lệ chiều dày và chiều rộng của lồng ngực (xem hình)
Hình dáng lồng ngực
a. Lồng ngực hình phễu b. Lồng ngực hình ống c. Lồng ngực phẳng dẹt
Người có sự phát triển thể lực tốt lồng ngực thường có hình dạng ốn, sương sườn nằm ngang, hai bờ dưới xương sườn kết hợp với xương ức tạo thành một góc gần 90 độ, tỷ lệ chiều dày và chiều rộng của lồng ngực lớn hơn 70 .Lồng ngực giữa như vậy thường gặp ở những người bị giãn phế quản, hen mãn tính…Người mà sự phát triển thể lực yếu có lồng ngực hình phẳng dẹt, sương sườn sệ xuống, hai bờ xương sườn tạo thành một góc nhọn, ngự nhô ra trước, chiều lồng ngực hẹp, chức năng hô hấp thường thấp.
Hình dáng lưng có thể bình thường phẳng hoặc cong vẹo. Hình dáng lưng bình thường có những đoạn cong tự nhiên theo chiều trước sau ở đoạn thắt lưng và ngực không quá 3cm so với trục thẳng đứng của cột sống. Lưng cong quá 3cm ra trước gọi là ưỡn và quá 3cm ra sau gọi là gù (xem hình).
Hình dáng lưng
a. Bình thường b. Cong gù c. Phẳng
Lưng có hình dáng phẳng khi các đoạn cong tự nhiên không rõ, cột sống như nằm trên một mặt phẳng. Bình thường cột sống không có các đoạn cong theo trục phải trái, cột sống có thể cong vẹo sang bên phải, bên trái với dạng chữ C (thuận hay ngược), S (thuận hay ngược). Đôi khi có thể bắt gặp động thời nhiều loại cong vẹo cột sống theo cả hai trục trước sau và phải trái. Các hình dáng lưng cong vẹo là kết quả của nhiều loại bệnh, trạng thái chức năng chung của cơ thể kém và còn do thiếu vận động, cũng như học tập, làm việc với tư thế không đúng. Giáo dục thể chất, nhất là tập luyện thể thao là một biện pháp có hiệu quả cao để đề phòng và điều trị cong vẹo cột sống.
Hình dáng bụng phụ thuộc vào sự phát triển của cơ thành bụng và lớp mỡ dưới da ở vùng bụng. Những người có sự phát triển thể lực tốt trên vùng bụng nổi rõ hình các cơ bụng, thành bụng hơi thụt vào, lớp mỡ dưới da mỏng. Những người ít hoạt động thể lực bụng phệ, lớp mỡ dưới da dày, cơ bụng phát triển yếu.
Hình dáng chân và cung bàn chân. Hình dáng chân có thể bình thường hoặc chân hình chữ O, dạng vòng kiềng hay hình chữ X – dạng chữ bát.
Chân có hình dáng bình thường khi đứng thẳng hai chân tiếp xúc với nhau ở các điểm 2 mắt cá trong, hai cạnh trong của khớp gối và cạnh trong của đùi. Khi chân có hình chữ O, thì hai cạnh trong của chân không tiếp xúc với nhau. Nếu khoảng cách đó hơn 5cm thí có thể coi là loại nặng. Chân hình chữ X khi đứng thẳng hai mắt cá trong không tiếp xúc với nhau nhưng hai đầu gối chạm nhau (xem hình)
Hình dáng chân
a. Bình thường b. Hình chữ X c. Hình chữ O
Chân hình chữ O hoặc chữ X có thể là kết quả của một số bệnh tật đã mắc phải, như còi xương, do cơ bắp phát triển yếu hoặc do khi còn trẻ phải làm việc nặng quá sớm, không tương ứng với các mức độ phát triển của bộ xương.
Hình dáng bàn chân có thể bình thường hoặc bàn chân bẹt. Hình dáng bàn chân có thể xác định bằng cách quan sát và in dấu bàn chân. Bình thường mặt dưới bàn chân có độ cong tự nhiên, khi in dấu bàn chân tỉ lệ giữa phần cong so với phần tiếp xúc với mặt đất là 2/1. Nếu vòm bàn chân sụt xuống thì hình bàn chân được gọi là bàn chân bẹt, tỉ lệ giữa phần cong và phần tiếp xúc với đất trên hình in sẽ ít hơn 2/1 (xem hình).
Hình dáng bàn chân
a. Bình thường b và c. Bàn chân bẹt các mức độ khác nhau
Các phương pháp nhân trắc hay còn gọi là phép đo người, bổ sung cho phương pháp quan sát và cung cấp những số liệu khách quan, chính xác về sự phát triển thể lực, độ tương ứng của thể lực với tuổi, giới tính cũng như những sai lệnh về phát triển thể lực có thể xảy ra dưới tác động của tập luyện TDTT không hợp lý.
Các phương pháp đo người cần phải được tiến hành vào cùng một thời gian trong ngày, tốt nhất là vào buổi sang, theo một phương pháp tiêu chuẩn, đã được kiểm tra độ chính xác. Người được kiểm tra phải mặc quần áo lót ngắn để không làm ảnh hưởng đến độ chính xác của phép đo.
Trong kiểm tra y học, để đánh giá sự phát triển thể lực ít nhất cần phải đo các chỉ số sau: chiều cao đứng và ngồi, cân nặng, vòng ngực, vòng bụng, vòng cổ, vòng cánh tay, cẳng tay, vòng đùi và cẳng chân, chiều rộng vai, chiều rộng hông, dung tích sống, lực kéo lưng, lực bóp tay, độ dày lớp mỡ dưới da.
Chiều cao đứng và ngồi được đo bằng thước đo chiều cao, có độ chuẩn đến 0,5cm. Chiều cao đứng được đo từ mặt đất tới đỉnh đầu. Người được đo đứng ở tư thế đứng nghiêm, lưng quay về phía thước đo và tiếp xúc với thước đo ở 3 điểm: gót chân, mông và lưng. Đầu thẳng sao cho góc ngoài của mắt và lỗ tai ngoài nằm trên một đường thẳng ngang (xem hình).
Đo chiều cao đứng và ngồi
Khi đo chiều cao ngồi người được đo ngồi ngay ngắn trên ghế có chiều cao vừa đủ để khi ngồi bàn chân chạm đất cẳng chân vuông góc với đùi lưng và mông tiếp xúc với thước đo. Chiều cao ngồi được tính từ mặt ghế tới đỉnh đầu, chiều cao đứng trừ đi chiều cao ngồi có thể cho ta số đo chiều dài chi dưới (hình 8).
Khi đo chiều cao cần phải chú ý rằng chiều cao của cơ thể có thể thay đổi trong ngày, buổi chiều tối chiều cao có thể giảm đi 1-2cm, sau các hoạt động thể lực nặng, chiều cao có thể giảm đi 3-5cm.
Theo hằng số sinh học của người Việt Nam (1967) chiều cao đứng của người Việt Nam là: nam 158,9cm ± 4cm và nữ 149,5cm ± 3cm.
Cân nặng ( trọng lượng cơ thể) có ý nghĩa quan trọng để đánh giá sự phát triển thể lực và tình trạng sức khoẻ của người tập. Đặc biệt là trong các môn thể thao có quy định hạng cân như vật, võ, quyền Anh v.v…trọng lượng cơ thể chỉ là chỉ số quyết định quyền thi đấu của VĐV.
Cân nặng chỉ là chỉ số dễ biến đổi và chịu tác động của các yếu tố khác nhau. Sau một buổi tập nặng, cân nặng có thể giảm tới 2-3kg. Cân nặng được đo bằng cân y tế với độ chính xác là 50kg.
Các số đo vòng được đo bằng thước đo mềm.
Vòng cổ được đo ngang sụn giáp trạng của thanh quản, sát đáy chữ V của sụn giáp trạng.
Vòng ngực được đo ở ba trạng thái: vòng ngực bình thường, vòng ngực hít vào hết sức và vòng ngực thở ra hết sức. Thước dây được đặt trên lồng ngực phía lưng ngang với góc dưới xương bả vai, phía ngực ngang qua mũi ức của xương ức. Khi đo cần chú ý để người được đo không căng cơ và nâng vai khi hít vào, không cúi khom lưng khi thở ra hết sức được gọi là độ linh hoạt của lồng ngực hay hiệu số giãn ngực. Trung bình hiệu số này vào khoảng 5-7cm. Ở các VĐV các môn thể thao sức bền hệ số này có thể lên tới 10 -12cm.
Vòng bụng được đo ở hai trạng thái căng cơ và thả lỏng cơ.
Vòng cánh tay đo ở phần cẳng tay lớn nhất khi cơ thả lỏng.
Vòng đùi và vòng cẳng chân đo khi người được đo đứng ở tư thế chân rộng bằng vai trọng lượng cơ thể phân bố đến hai chân, cơ chân thả lỏng. Vòng đùi đo ngay dưới nếp lằn mông. Vòng cẳng chân đo ngay qua phần to nhất của cẳng chân.
Các chiều rộng, chiều dầy của các bộ phận cơ thể được đo bằng compa nhân trắc (xem hình).
Compa nhân trắc để đo các chiều dày của cơ thể
Chiều rộng vai đo bằng cách đặt hai đầu compa vào hai điểm xa nhất của đầu vai.
Chiểu rộng hông đo ở hai điểm xa nhất ngang hông. Khi đo chiều rộng hai đầu compa phải cùng nằm trên một mặt phẳng ngang.
Dung tích sống của phổi được đo bằng một dụng cụ đặc biệt gọi là phế dung kế. Trước khi đo, người được kiểm tra hít thở 3-4 lần sau đó hít vào thật sâu rồi thở ra hết sức vào ống của máy đo, có thể dung tay để bịt mũi khi thở ra. Thường thường người ta đo dung tích sống ba lần rồi lấy kết quả cao nhất. Dung tích sống trung bình ở nam khoảng 3-4lit, nữ khoảng 2-3lit. Ở các VĐV bơi, dung tích sống cao hơn người bình thường. VĐV bơi có thể có dung tích sống đến 7lit.
Lực bóp tay đo bằng lực kế tay. Người được đo đứng ở tư thế bình thường, tay duỗi thẳng, long bàn tay có đồng hồ đo hướng ra phía trước, bóp hết sức với cường độ tăng dần đều. Mỗi tay bóp ba lần lấy kết quả cao nhất.
Lực kéo lưng được đo bằng lực kế lưu. Khi đo người được kiểm tra dẫm hai chân lên đầu chân của lực kế, hai tay nắm và đầu tay của lực kế đã được điều chỉnh sao cho tay nắm ở ngang đầu gối. Người được kiểm tra phải kéo bằng cách ưỡn thân người với lực tăng dần, trong khi tay và chân vẫn giữ thẳng (xem hình).
Tư thế đo lực kéo lưng
Trước khi đo lực kéo lưng người được kiểm tra phải khởi động lưng thân và vai. Không nên kiểm tra lực kéo lưng của những người đau cột sống, đau lưng, đau bụng, phụ nữ có thai.
Các số liệu kiểm tra thu được bằng phương pháp quan sát và đo đạc phải được sử lý và đánh giá, trên cơ sở đó mới có thể rút ra những kết luận cần thiết về mức độ phát triển thể lực của người được kiểm tra.
Mức độ phát triển thể lực có thể được đánh giá bằng cách so sánh với tiêu chuẩn và bằng cách tính các chỉ số thể lực.
So sánh với tiêu chuẩn là phương pháp so sánh các số liệu thu được qua kiểm tra với tiêu chuẩn đã có sẵn qua đó rút ra những kết luận nhất định về mức độ phát triển của chỉ số nghiên cứu.
Những giá trị tiêu chuẩn mẫu được xây dựng bằng cách khảo sát thực tế với số lượng rất đông các đối tượng đồng nhất về chủng tộc, điều kiện sống, điều kiện nghề nghiệp, tuổi, giới tính v.v…để tìm ra giá trị trung bình (X) và độ lệch chuẩn (S) của các chỉ số nghiên cứu, bằng phương pháp toán học thống kê.
Trên bảng 12 đã trình bày một số tiêu chuẩn về hình thái, điều tra ở học sinh các trường dạy nghề, trong đó nêu lên số trung bình (X) của giá trị tìm được và độ lệch chuẩn (δ) của số trung bình, biểu thị độ dao động của các giá trị với số trung bình. Độ lệch chuẩn càng nhỏ thì chỉ số nghiên cứu càng đồng nhất.
Khi các bảng tiêu chuẩn mẫu như ở bảng 12 ta có thể xây dựng những bảng đánh giá dung để so sánh bằng cách thường dung trong y sinh học như sau:
Những giá trị bằng X ± ½ δ được đánh gia là trung bình
Từ X ± 0,55 đến X ± 1 δ: trên và dưới trung bình
Từ X ± 1S đến X ± 2 δ: cao, thấp, trung bình
Từ X ± 2S đến X ± 3 δ: rất cao hoặc rất thấp
Ví dụ như chiều cao trung bình là 164, 0cm và độ lệch chuẩn là 5cm. Khi kiểm tra ta đo được ở một học sinh chiều cao là 170,0cm tức là em đó đã cao hơn trung bình 170 – 164 = 6cm, và 6 : 6 = 1,2 δ. Như vậy em đó có chiều cao là X 1,2 δ theo bảng đánh giá em học sinh đó sẽ xếp vào loại cao. Các chỉ số khác cũng đều có thể đánh giá như vậy.
Kết quả so sánh với các tiêu chuẩn mẫu có thể biểu diễn bằng đồ thị bằng cách kể một bảng được gọi là hình thái đồ. Trong đó có đường trung bình (đường của giá trị X). Phía trên và phía dưới đường trung bình là những đường thẳng tương ứng với ± 0,5 δ; ± 1 δ; ± 2 δ v.v…Trên hình thái đồ ta đánh dấu các điểm tương ứng của giá trị đo được theo cách tính thành độ lệch như nêu ở trên và nối các điểm đó lại, ta sẽ được một đường cong đặc trưng cho sự phát triển thể lực của một người so với mức trung bình (xem hình).
Trên hình thái đồ có thể dễ dàng nhận thấy những đặc điểm về mức độ phát triển thể lực để xây dựng nội dung tập luyện phù hợp nhằm khắc phục các yếu điểm.
Ví dụ như đối với học sinh biểu diễn hình thái đồ ở hình 11 cần phải bổ sung các bài tập phát triển cả tay, nhất là tay trái vì các chỉ số vòng tay trái, lực bóp tay trái của học sinh này đều ở mức dưới trung bình.
Hình thái đồ
Dung tích sống (ml)
Cân nặng (kg)
--- Bài cũ hơn ---
Lý Luận Giáo Dục Thể Chất Ly Luan Giao Duc The Chat Doc
Tập Bài Giảng Lý Luận Và Phương Pháp Giáo Dục Thể Chất
Gahp: Llppgdtc Ly Luan Va Phuong Phap Giao Duc The Chat Doc
Lý Luận Gdtc Li Luan Chung Ve Gdtc Ppt
Chương Trình Môn Học Giáo Dục Thể Chất