--- Bài mới hơn ---
Cạnh Tranh Hoàn Hảo (Perfect Competition) Là Gì? Ví Dụ Về Cạnh Tranh Hoàn Hảo
Cạnh Tranh Độc Quyền (Monopolistic Competition) Là Gì? Ví Dụ Về Cạnh Tranh Độc Quyền
Lý Luận Về Cạnh Tranh Và Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
Khái Quát Về Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
Khái Niệm Năng Lực Cạnh Tranh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Điều Luật Cạnh tranh năm 2022 quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm gồm các hành vi như sau:
– Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
– Xâm phạm bí mật kinh doanh;
– Ép buộc trong kinh doanh;
– Gièm pha doanh nghiệp khác;
– Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
– Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
– Phân biệt đối xử của hiệp hội;
– Bán hàng đa cấp bất chính;
– Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo quy định của pháp luật.
Cụ thể như sau:
Ví dụ : Sản phẩm trà chanh N của của một thương hiệu nổi tiếng N và trà chanh F của Công ty sản xuất F chưa thực sự nổi tiếng, chưa được nhiều khách hàng viết đến.
Sản phẩm trà chanh N hiện được ưa chuộng trên thị trường nhưng không ít khách hàng, nhất là khách hàng ở các tỉnh, bị nhầm lẫn với F của công ty F.
Theo tài liệu của Công ty sở hữu trí tuệ B được công bố công khai trong cuộc hội thảo do Bộ Công thương tổ chức thì, công ty F (Có địa chỉ tại Hà Nội) đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Cụ thể, Công ty F đã sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn giữa hai sản phẩm trà chanh F và N. Sự tương tự về phần chữ: Cấu tạo, cách phát âm và tương tự cả về cách trình bày, bố cục, mầu sắc. Trông bề ngoài, nếu không để ý sẽ khó phát hiện hai gói trà chanh này là do hai công ty khác nhau sản xuất. Một số người tiêu dùng được hỏi thì cho rằng, cả F và N cùng là sản phẩm của công ty N, vì trông chúng rất… giống nhau!
Cùng nằm trong dòng sản phẩm của công ty N, sản phẩm sữa M bị tới hai hãng khác cạnh tranh không lành mạnh thông qua các chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn. Sản phẩm sữa G của Cty M được sản xuất với những điểm tương tự sữa M như: Tương tự về bao gói sản phẩm, cách thức trình bày, bố cục, mầu sắc.
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh
Xâm phạm bí mật kinh doanh là việc doanh nghiệp có các hành vi như tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác, tiết lộ, sử dụng thông tin, bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu chân chính…
3. Ép buộc trong kinh doanh
Ép buộc trong kinh doanh là việc doanh nghiệp ép buộc, đe dọa khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ không cho họ giao dịch hoặc phải ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
4. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là việc một doanh nghiệp có hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp “đối thủ”.
– So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác;
– Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về giá cả, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công …
6. Khuyến mại không lành mạnh
Khuyến mại không lành mạnh là việc :
– Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng, không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng.
– Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
– Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình;
Ví dụ về khuyến mãi không đúng : Theo một công bố của Ban Điều tra và Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thì Công ty M đã đưa ra chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại TP. Hồ Chí Minh.
Cụ thể, công ty này đưa ra chương trình khuyến mại bột canh, người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm M. Hành vi này được quy định là một trong các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”.
Công ty U đã khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh. Thanh tra Sở đã lập biên bản và yêu cầu đình chỉ chương trình khuyến mại.
7. Bán hàng đa cấp bất chính
Bán hàng đa cấp bất chính là việc doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây:
1. Yêu cầu người tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
N là một công ty phân phối sản phẩm nước trái nhàu ở Việt Nam. Công ty này qui định : Để có thể trở thành thành viên cấp I của mạng lưới phân phối, các phân phối viên phải mua 1 thùng 4 chai nước T với giá gốc là 2,7 triệu đồng, giá phân phối là 3,2 triệu đồng. Nếu thành viên cấp I giới thiệu thêm được 3 người khác tham gia vào mạng lưới (mỗi người lại đóng 2,7 triệu đồng) thì sẽ được hoa hồng 20% tổng số tiền những người này mua sản phẩm. 3 người sau này được coi là thành viên cấp II. Nếu các thành viên cấp II này giới thiệu thêm được 3 người khác tham gia vào mạng lưới thì thành viên cấp I sẽ tự động được hưởng thêm 5% tổng số tiền mà 3 thành viên cấp III nộp để mua sản phẩm.
Theo tính toán, khi mạng lưới phát triển đến tầng thứ 8 thì số tiền hoa hồng được chuyển về tài khoản của “người lôi kéo” ban đầu là 56,2 triệu đồng mặc dù người này không phải làm gì ngoài việc rủ rê được 3 người mới tham gia vào mạng lưới phân phối. Như vậy theo mô hình trả hoa hồng này, thu nhập thu được không phải xuất phát việc bán sản phẩm mà là do chiếm dụng tiền của các thành viên tiếp theo trong mạng lưới.
Một ví dụ điển hình khác cho trường hợp này là hành vi của các nhân viên công ty bán hàng đa cấp Công ty T. Theo đó, Công ty T hướng tới đối tượng chủ yếu là các bạn sinh viên năm nhất, năm hai có ham muốn kiếm tiền, khao khát làm giầu nhưng lại không muốn vất vả. Họ yêu cầu các bạn sinh viên khi tham gia phải đóng một khoản tiền nhất định để mua của công ty và bán lại cho người khác. Nếu người đó không bán được thì coi như họ mất toàn bộ số tiền đã bỏ ra, công ty không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại. Hơn nữa, họ còn hứa sẽ có tiền hoa hồng, tiền thưởng, được tăng cấp, bậc nếu rủ được nhiều người vào mạng lưới bán hàng đó….
8. Gièm pha doanh nghiệp khác
Gièm pha doanh nghiệp khác là việc doanh nghiệp bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Nội dung được đưa ra rất đa dạng, như chất lượng sản phẩm, tình hình tài chính, uy tín và đạo đức của người quản lý, về cổ phiếu… Những thông tin này tác động đến nhận thức và đánh giá của khách hàng về sản phẩm dịch vụ cũng như tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khác. Qua đó khách hàng sẽ quyết định có hay không việc giao dịch hoặc tiếp tục giao dịch với doanh nghiệp bị gièm pha. Trong trường hợp này quyền được thông tin của khách hàng đã bị xâm phạm để qua đó các quyết định không giao dịch với doanh nghiệp bị gièm pha không còn đúng đắn.
Hậu quả của hành vi là gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và họat động kinh doanh của doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp phản ảnh niềm tin và sự yêu thích của khách hàng đối với doanh nghiệp hoặc sản phẩm dịch vụ. Sự giảm sút uy tín thể hiện giảm sút giao dịch, giảm doanh số bán, giảm số lượng khách hàng.
Đối với hành vi này, mọi sự suy đoán về hậu quả đều không được coi là cơ sở để kết luận về sự vi phạm.
Thế nhưng theo diễn đàn trên đã xây dựng diễn đàn “Bó toàn thân với Công ty cổ phần ô tô X – kinh nghiệm cho các bác sửa xe” để các thành viên của diễn đàn bêu xấu Công ty X. Hành vi trên của diễn đàn ô tô chính là một trong những hành vi gièm pha doanh nghiệp khác.
9. Phân biệt đối xử của Hiệp hội
Phân biệt đối xử của Hiệp hội được thể hiện bằng những hành vi sau đây:
+ Từ chối doanh nghiệp có đủ điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi trong cạnh tranh;
Ngoài các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm như trên, Luật Cạnh tranh còn cấm nhiều hành vi có dấu hiệu “hạn chế cạnh tranh”. Hiểu theo nghĩa nôm na, là những hành vi đơn lẻ hoặc giữa một nhóm doanh nghiệp cùng ngành kinh doanh, nhằm mục đích tạo ra những sự “cản trở”, không cho các doanh nghiệp khác có cơ hội cạnh tranh với mình.
Có 2 dạng hành vi hạn chế cạnh tranh, gồm :
– Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh;
– Làm dụng vị trí thống lĩnh hay độc quyền trên thị trường.
Trong một số trường hợp, các hành vi có dấu hiệu hạn chế cạnh tranh như trên có thể bị cấm.
Công ty phát thanh A và Công ty phát thanh S là hai nhà cung cấp hệ thống cáp duy nhất tại một địa phương ở Nhật Bản. Họ thường thu phí sử dụng truyền hình cáp của người dân địa phương là 300 yên/tháng và những người dân ngoài địa phương là 400-500 yên/tháng.
Tuy nhiên, từ giữa năm 2003, A và S đã cùng gửi thư đến những người sử dụng dịch vụ của họ để thông báo về việc tăng phí. Cả hai đã thừa nhận là do chi phí cho các kênh chương trình tăng giá và sự cạnh tranh khốc liệt lãng phí giữa họ nên cả hai đều phải chịu thua lỗ.
Vì vậy, A và S đã thỏa thuận với nhau và quyết định chấm dứt cạnh tranh về giá và xóa bỏ việc giảm giá cho những người sử dụng cư trú ở các khu nhà ở và các khu liên hợp. Hai bên cũng nhất trí là sẽ điều chỉnh giá dịch vụ.
Theo quyết định Uỷ ban cạnh tranh Nhật Bản, A và S bị yêu cầu chấm dứt việc thực hiện hành động trên. Đối với trách nhiệm hình sự của họ, vụ việc này sẽ được chuyển cho công tố viên để điều tra thêm.
Vụ việc trên của A và S là một dấu hiệu cảnh báo đối với các doanh nghiệp muốn dùng cách “thông đồng” để thu lợi nhuận lớn ngay trước mắt thay vì sử dụng chính năng lực cạnh tranh và khả năng thực tế của mình để thu hút khách hàng.
--- Bài cũ hơn ---
Bộ Sách Chiến Lược Cạnh Tranh Của Michael Porter
Mô Hình Năm Lực Lượng Cạnh Tranh Của Michael Porter (Porter’s Five Forces) Là Gì?
Cha Đẻ Thuyết Canh Tranh Michael Porter: Thoát ‘bẫy’ Cạnh Tranh Bằng Sự Khác Biệt
Mô Hình 5 Áp Lực Cạnh Tranh Của Michael Porter
Các Quan Điểm Về Cạnh Tranh