--- Bài mới hơn ---
Đề Tài Rủi Ro Trong Thanh Toán Quốc Tế, Điểm Cao
Quản Trị Rủi Ro Tài Sản (Asset Risk Management) Là Gì? Tầm Quan Trọng Của Quản Trị Rủi Ro Tài Sản
Tiểu Luận Cấu Trúc Rủi Ro Của Lãi Suất
Cấu Trúc Rủi Ro Của Lãi Suất (Interest Rate Risk Structure) Là Gì?
Khái Niệm, Phân Loại Rủi Ro Tín Dụng
2
5
7
– Rủi ro trong bảo hiểm: Trong hợp đồng thương mại được ký, các bên tham
gia thiếu sự quản lý chặt chẽ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng trong vận chuyển
hàng hóa. Khi đó hàng hóa được đền bù với giá quy định trong hợp đồng bảo hiểm,
nhưng có thể thấp hơn nhiều so với giá trị thực của hàng hóa.
– Yếu tố chất lượng, nguồn gốc của hàng hóa: Hàng hóa với chất lượng
không như chuẩn mực đã ký kết hay như tên gọi gốc sẽ gây ra những rắc rối đối
với người nhập hàng trong việc quan hệ với các cơ quan chức năng: hải quan,
thuế,…Ví dụ khi hợp đồng hàng hóa đã ký nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa tại một
nước nào đó thi không thể thay thế bằng hàng nhập từ nước khác. Trường hợp hải
quan xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa không đúng như đăng ký , người
nhập khẩu sẽ phải trả thêm lệ phí.
Một ví dụ điển hình trong thực tế, Công ty Hapos của Úc đã ký thoả thuận
mua hàng với một đối tác Nhật Bản, nhưng trong hợp đồng, Hapos đã để cho đối
tác Nhật Bản lựa chọn hãng tàu vận chuyển. Hapos cứ đinh ninh đợi hàng về,
nhưng sự việc bất ngờ đã xảy ra, chiếc tàu của hãng tàu trên trên đường từ Nhật
Bản đến Úc đã bị hải quan bắt giữ vì có vận chuyển hàng cấm và hàng chưa kê khai
hải quan. Kết quả là tất cả các hàng hoá mà Hapos đặt cũng bị tịch thu luôn.
2. Rủi ro do cho vay tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu
– Khái niệm: Rủi ro tín dụng xảy ra khi NHTM cấp tín dụng cho khách hàng
để thực hiện các phương thức thanh toán quốc tế theo những điều kiện thanh toán
đã thỏa thuận với đối tác nước ngoài.
– Nguyên nhân: Rủi ro tín dụng gây ra cho các ngân hàng xuất phát từ các
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân chủ quan:
+ Khả năng áp dụng quy chế và năng lực cán bộ trong quá trình thẩm định
món vay xuất – nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện các phương thức
thanh toán chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán theo L/C, thanh toán ứng trước, chiết
khấu hối phiếu và chứng từ, đó là các vấn đề như thẩm định phương án vay vốn,
phân tích năng lực tài chính, khả năng hoàn trả, hiệu quả sử dụng vốn của khách
hàng, khả năng phân tích các thông tin rủi ro từ phía đối tác của khách hàng, của
ngân hàng nước ngoài.
+ Sự phối hợp giữa thực hiện nghiệp vụ TTQT của cán bộ đối với những
dịch vụ thanh toán cung ứng tín dụng. đó là các vấn đề về điều kiện thanh toán, sửa
đổi L/C, ký hậu và bảo lãnh vận đơn nhận hàng..
Nguyên nhân khách quan: Đối với các phương thức thanh toán, khả năng rủi
ro tín dụng bao gồm các nguyên nhân rủi ro do khả năng thanh toán của khách hàng
và ngân hàng nước ngoài đem lại, mà khả năng này lại phụ thuộc vào các nhân tố
khách quan khác như: Đối tác của khách hàng không thực hiện hợp đồng đúng, đủ,
kịp thời về hàng hóa và điều kiện thanh toán làm phá vỡ kế hoạch tiêu thụ, kế
9
bảo lãnh về số tiền ứng trước đó, để tránh rủi ro mất tiền khi người bán không thực
hiện những nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng ngoại thương.
1.2. Rủi ro đối với người bán
Rủi ro xảy đến với người bán trong trường hợp nếu người mua thanh toán
sau khi xuất hàng thì việc thanh toán phụ thuộc vào thiện chí của người mua, do đó
bên bán dễ bị bên mua chiếm dụng vốn trong thanh toán.
1.3. Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người mua
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người mua khi Ngân hàng cho vay thanh
toán để người mua nhập hàng, khi hàng về không đúng phẩm chất, quy cách,
thương vụ thua lỗ, người mua mất khả năng thanh toán, gây tổn thất cho ngân hàng
không thu được nợ.
1.4. Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người bán
Rủi ro đối với ngân hàng phục vụ người bán trong trường hợp Ngân hàng
cho vay thu mua, sản xuất hàng xuất khẩu, người bán không thu hồi được tiền, ảnh
hưởng đến thu nợ của Ngân hàng.
Rủi ro có thể xảy đến với Ngân hàng trong phương thức thanh toán bằng
chuyển tiền cũng có thể do công nghệ thanh toán lạc hậu, chất lượng đường truyển
kém dẫn đến việc chuyển sai hoặc chuyển nhầm số tiền cần thanh toán.
Bên cạnh đó, rủi ro trong phương thức này có thể do sự tắc trách, cẩu thả của
cán bộ thanh toán dẫn đến thanh toán nhầm hoặc chậm thanh toán.
Tóm lại, phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn
giản, thủ tục nhanh gọn đối với ngân hàng. Trong phương thức thanh toán này,
Ngân hàng đóng vai trò là trung gian, do đó rủi ro đối với Ngân hàng trong trường
hợp này phần lớn gắn liền với rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
2. Rủi ro trong phương thức ghi sổ
Phương thức thanh toán ghi sổ thuận lợi cho người mua, rủi ro cho người
bán.
Thuận lợi cho người mua: Người mua chỉ phải trả tiền khi đã nhận được
hàng hóa, dịch vụ hoặc thậm chí khi tiêu thụ xong hàng hóa và dịch vụ.
Thuận lợi cho người bán: Tiêu thụ được hàng hóa và giữ được thị trường
truyền thống.
Bất lợi cho người bán: Người bán đã chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa
mà không được đảm bảo thanh toán: Có khả năng các sự kiện kinh tế chính trị sẽ
đặt ra các quy định làm chậm trễ hoặc tạm ngừng việc chuyển tiền cho người bán;
vốn của người bán bị đọng cho đến khi người mua nhận hàng, đôi khi gặp sự chây
ỳ không thanh toán của người mua thì việc theo đuổi con nợ gặp phải khó khăn vì
15
ngay từ đầu người mua đã không cần phải phát hành bất cứ chứng từ nhận nợ nào
để cam kết thanh toán màng tính phi lý của mình.
3. Rủi ro trong phương thức nhờ thu
3.1. Rủi ro chủ yếu thuộc về nhà xuất khẩu
– Đối với phương thức thanh toán bằng nhờ thu trơn không đảm bảo quyền
lợi cho bên bán (thanh toán không bình đằng) giữa sự trả tiền và nhận hàng tách
rời, không có sự ràng buộc lẫn nhau. Người mua có thể nhận hàng mà không chịu
trả tiền hoặc trì hoãn việc trả tiền.
– Đối với phương thức thanh toán bằng nhờ thu kèm chứng từ, người bán
không chỉ nhờ Ngân hàng thu hộ tiền mà còn nhờ Ngân hàng khống chế chứng từ
hàng hóa đối với người mua. Với cách khống chế theo bộ chứng từ này quyền lợi
của bên bán được đảm bảo hơn vì sự ràng buộc giữa việc thanh toán và nhận hàng
của người mua. Tuy nhiên trong phương thức thanh toán này vẫn có thể xảy ra rủi
ro đối với người bán. Người bán thông qua Ngân hàng giữ hộ số hồ sơ hàng hóa
mới chỉ đảm bảo được quyền sở hữu hàng hóa của mình, chứ chưa khống chế được
việc trả tiền của người mua. Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa
nhận chứng từ hàng hóa (không cần nhận hàng), không thanh toán khi giá cả trên
thị trường biến động dẫn đến bất lợi cho người bán trong việc giải tỏa hàng hóa và
gặp rủi ro trong tiêu thụ hàng hóa.
3.2. Rủi ro đối với nhà nhập khẩu
Trong phương thức nhờ thu, người mua do quy định họ phải có trách nhiệm
trả tiền ngay hoặc chấp nhận hối phiếu trước khi nhận hàng vì vậy không có điều
kiện kiểm tra hang hóa trước, người mua có thể gặp trường hợp hàng hóa giao
không đúng quy cách, phẩm chất với chứng từ hoặc với hợp đồng.
3.3. Rủi ro đối với ngân hàng trung gian thu hộ
Đối với các ngân hàng ngoài sự cẩn trọng khi thực hiện đúng chỉ thị ủy
nhiệm thu thì rủi ro chủ yếu của ngân hàng là rủi ro tín dụng:
+ Ngân hàng nhận nhờ thu: Gặp rủi ro khi chiết khấu bộ chứng từ mà lại bị
người nhập khẩu từ chối thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu.
+ Ngân hàng ủy nhiệm nhờ thu: Gặp rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng
nhưng hàng hóa của nhà nhập khẩu lại gặp khó khăn trong tiêu thụ.
4. Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ
4.1. Rủi ro đối với ngân hàng phát hành
Trong phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, các Ngân hàng tham gia
không chỉ đơn thuần chỉ là những trung gian thanh toán mà chính là những thành
viên thực sự trong quá trình thanh toán, là “người” cam kết trả tiền cho người bán
thay cho người mua. Với việc mở L/C cho người hưởng lợi, Ngân hàng phát hành
16
đã thay mặt người nhập khẩu cam kết việc thanh toán cho người hưởng lợi, điều đó
có nghĩa là Ngân hàng phát hành sẽ trả tiền cho người thụ hưởng thực hiện đầy đủ
các điều kiện ngay cả khi người mở không trả hay không muốn thanh toán L/C và
lúc này Ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro. Rủi ro này không thuộc về mối quan hệ tín
dụng, vậy nên khi Ngân hàng nhận được thư yêu cầu mở L/C, Ngân hàng cần xem
xét kỹ tình hình tài chính của khách hàng để có thể có các phán quyết chính xác
trước khi mở L/C.
Bên cạnh đó, đối với trường hợp loại L/C không thể hủy ngang khi đã được
phát hành thì Ngân hang không thể tự ý hủy bỏ hoặc sửa đổi, chỉ được phép thông
báo sai sót trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ chứng từ, nếu qua
thời hạn đã quy định đó thì Ngân hàng mất quyền từ chối và chịu mọi rủi ro, tổn
thất.
4.2. Rủi ro đối với ngân hàng thông báo
Đối với ngân hàng thông báo L/C cần thiết phải xác định tình trạng mã khóa của
Ngân hàng phát hành L/C, nếu không xác định được điều này phải nêu rõ trong
thông báo L/C cho người xuát khẩu và nói rõ không chịu trách nhiệm về tính xác
thực của L/C này, nếu trong việc này Ngân hàng thông báo không cẩn trọng sẽ dẫn
đến rủi ro cho Ngân hàng thông báo và người xuất khẩu.
4.3. Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu
Trong trường hợp nếu các Ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ
chứng từ không phát hiện ra sai sót hoặc bỏ qua các lỗi cho là nhỏ, sau khi thực
hiện thanh toán hoặc chiết khấu cho người bán Ngân hàng sẽ phải chịu mọi rủi ro
nếu Ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán. Đặc biệt trong trường hợp Ngân
hàng chiết khấu đồng thời là Ngân hàng xác nhận L/C thì Ngân hàng đó sẽ không
có quyền truy đòi lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu.
4.4. Rủi ro đối với nhà nhập khẩu
Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ nên nhà nhập khẩu buộc phải
thanh toán bất kể hàng hóa tốt hay xấu. rủi ro thuộc về phía người mua nếu người
bán cố ý lập các chứng từ hàng hóa giả mạo, người mua sẽ phải gánh chịu những
thiệt hại do lừa đảo từ phía người bán.
Thực tế đã minh chứng không ít nhiều người bán tiền chuyển đi mà hang thì
không thấy về. Điển hình, Tập đoàn Nestle có nhập khẩu bơ từ hãng Latel của Na
Uy để sản xuất các loại sữa giàu dinh dưỡng. Cuộc mua bán được giới thiệu thông
quan một số thông tin trên Internet. Do đang trong lúc cần nguyên liệu gấp nên
Nestle đã nhanh chóng thoả thuận hợp đồng nhập khẩu với Latel. Họ đã thoả thuận
thanh toán theo L/C, vì vội vàng nên Nestle chưa đề cập kỹ các nội dung cụ thể của
L/C mà nhanh chóng chuyển tiền cho Latel theo L/C thông qua một ngân hàng do
Nestle chỉ định. Nhưng rồi, tiền thì được gửi đi mà hàng thì mãi vẫn chưa thấy về.
17
Tìm hiểu kỹ thì Nestle mới vỡ lẽ ra rằng, Latel chỉ là một công ty ảo trên mạng,
không có thật.
4.5. Rủi ro đối với nhà xuất khẩu
Chi phí cao, đôi khi không đáp ứng được những quy định của L/C nên việc
thanh toán có thể bị trì hoãn, thậm chí bị từ chối thanh toán. Một ví dụ điển hình đó
là:
Lagergren, một hãng kinh doanh các sản phẩm nội thất lớn của Thuỵ Điển,
đã bán một lô hàng đồ gỗ cho tập đoàn Cadtrak Furniture chúng tôi của Đài Loan. Về
phần mình, theo thoả thuận giữa hai bên, Cadtrak đã mở tại ngân hàng của mình
một thư tín dụng L/C để chuyển nhượng số tiền hàng trị giá 760.000 USD cho
Lagergren qua một ngân hàng Thuỵ Điển. Theo thoả thuận giữa hai bên, hàng sẽ
được giao thành hai chuyến, mỗi chuyến cách nhau muộn nhất là 20 ngày . Tiền
hàng cũng được thanh toán làm hai lần và việc thanh toán qua L/C sẽ tuân theo
UCP500.
Có hai điều kiện được quy định cho thư tín dụng. Thứ nhất, ngân hàng Đài
Loan sẽ tiến hành thanh toán khi nhận được một bộ đầy đủ vận đơn đường biển đã
xếp hàng hoàn hảo. Thứ hai, ngân hàng Thuỵ Điển sẽ phải đợi giấy chấp nhận hàng
do ngân hàng tại Đài Loan của Cadtrak cấp. Giấy này sẽ được cấp sau khi có thông
báo của Cadtrak rằng họ đã nhận được hàng và hàng đã được cơ quan y tế Đài Loan
tại cảng chấp nhận. Sau khi hàng đến Đài Loan, ngân hàng Thuỵ Điển đã gửi bộ
chứng từ của chuyến hàng cho Cadtrak và đã bị Cadtrak từ chối với lý do thời gian
giữa hai chuyến giao hàng đã vượt quá 20 ngày. Ngân hàng Thuỵ Điển đã không
chấp nhận điều này. Do vậy, ngân hàng đã thuyết phục Cadtrak chấp nhận điều
không đúng nguyên tắc trên. Sau cùng, Cadtrak chấp nhận thời gian giao hàng quá
20 ngày nhưng vẫn bảo lưu ý kiến từ chối của mình với lý do đợi sự chấp nhận lô
hàng của Bộ Y tế Đài Loan, cơ quan mà công ty Cadtrak nộp đơn xin kiểm tra
hàng. Sau đó không lâu, Cadtrak thông báo rằng họ chính thức từ chối hàng của
Lagergren vì Cơ quan Y tế Đài Loan tại cảng đã phát hiện ra nguy cơ mối mọt
trong lô hang đồ gỗ này.Lagergren lập luận rằng, trong biên bản của Cơ quan y tế
đã không có dòng chữ bác bỏ sản phẩm. Tuy nhiên, Cadtrak vẫn giữ nguyên quan
điểm của mình vớI nhận định rằng: “theo thông lệ, hàng đồ gỗ phải đủ độ tin cậy để
lưu kho trong vòng 12 tháng”. Cadtrak cho rằng sản phẩm mà họ đặt đã không
được đảm bảo về chất lượng và bởi vậy khăng khăng không chấp nhận lô hang này.
18
19
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
THANH TOÁN QUỐC
I. Một số giải pháp hạn chế rủi ro với chủ thể là các Ngân hàng Thương
mại.
1. Đối với bản thân mỗi Ngân hàng thương mại cần phải thực hiện:
1.1. Các giải pháp chung:
* Nhanh chóng xây dựng quy trình quản trị rủi ro chính thức trong thanh
toán quốc tế:
Quản trị rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế phải là một quá trình gồm
những công đoạn khác nhau, chịu ảnh hưởng lẫn nhau: kết quả của công đoạn này
là cơ sở để tiến hành các công đoạn tiếp theo. Quy trình phải bao gồm ít nhất 5
bước cụ thể: (1) Nhận dạng rủi ro có thế xảy ra trong hoạt động thanh toán quốc tế;
(2) Đo lường rủi ro, tổn thất trong hoạt động thanh toán quốc tế; (3) Giám sát rủi
ro trong thanh toán quốc tế; (4) Lựa chọn kỹ thuật phòng ngừa rủi ro trong thanh
toán quốc tế; (5) Báo cáo và đánh giá về quản trị rủi ro trên thực tế.
* Hoàn thiê nê chiến lược quản trị rủi ro tổng thể và phổ cập một cách rộng rãi
trong toàn hệ thống ngân hàng:
Rủi ro có thể xảy ra từ tất cả các hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng
thương mại, do vậy ngân hàng thương mại không thể chỉ có chiến lược quản trị rủi
ro thanh toán quốc tế hay một vài loại rủi ro cụ thể nào khác. Các ngân hàng cần
hoàn thiê ên chiến lược quản trị rủi ro toàn diện và mang tính dài hạn đối với tất cả
các hoạt động kinh doanh. Tất cả mọi cán bộ công nhân viên, cổ đông của Ngân
hàng đều phải tham gia đóng góp ý kiến hoàn thiện chiến lược.
* Kiện toàn về tổ chức cũng như hoạt động của bộ phận quản trị rủi ro để
tăng cường quản trị rủi ro của Ngân hàng.
Chất lượng và hiệu quả của công tác quản trị rủi ro phản ánh năng lực quản
trị rủi ro của ngân hàng. Để đạt được chất lượng và hiệu quả cao, một trong những
giải pháp cần thiết là phải tách bạch giữa bộ phận quản trị rủi ro và bộ phận kinh
doanh tiến tới quản trị rủi ro theo ngành dọc. Trên cơ sở đó bộ phận này mới có thể
giám sát chặt chẽ toàn bộ các rủi ro và điều hành chính sách quản lý rủi ro phù hợp
với từng thời kỳ.
* Đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật và công nghệ hiện đại phục vụ hoạt động
quản trị rủi ro trong thanh toán quốc tế:
* Nâng cao năng lực quản trị rủi ro đối với đội ngũ cán bộ quản lý các cấp
* Chú trọng đào tạo và phổ câ pê kiến thức về quản trị rủi ro cho cán bô ê nhân
viên:
20
--- Bài cũ hơn ---
Country Risk Premium (Crp) Là Gì? Định Nghĩa, Ví Dụ, Giải Thích
Rủi Ro Quốc Gia (Country Risk) Là Gì? Đánh Giá Rủi Ro Quốc Gia
Định Nghĩa Rủi Ro Quốc Gia Tổng Giá Trị Của Khái Niệm Này. Đây Là Gì Rủi Ro Quốc Gia
Nhận Dạng Rủi Ro (Risk Identification) Là Gì? Cơ Sở Và Phương Pháp Nhận Dạng Rủi Ro
Các Loại Rủi Ro Cơ Bản Của Ngân Hàng Thương Mại